Lớn mạnh trong 30 năm thái bình, sản lượng lúa Việt Nam tăng gấp 3.5 lần, từ 11.6 triệu tấn năm 1975 lên 35.6 triệu tấn năm 2004 trên diện tích gieo trồng từ 5,6 triệu ha lên 7,3 triệu ha, năng suất bình quân từ 2,2 tấn/ha tăng lên 4,9 tấn/ha. Sự gia tăng to lớn này đã đưa Việt Nam lên hàng thứ hai các quốc gia xuất khẩu gạo thế giới.
Nhưng mặc dù có gia tăng nhanh sản lượng lúa, lợi tức và đời sống của nông dân Việt tuy có tăng hơn trước nhưng tăng rất chậm, chưa tương xứng với tốc độ tăng của các khu vực khác. Người dân nông thôn tuy được xóa nghèo phần lớn theo tiêu chuẩn nhà nước nhưng tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày trở nên trầm trọng giữa thành thị và nông thôn, và trong cùng địa bàn.
Sau ngày 30/04/1975, Nhà nước Cách mạng đã tập trung chỉ đạo một chính sách an toàn lương thực (ATLT) trên toàn quốc, mọi công dân Việt Nam đều tham gia sản xuất lương thực, kể cả tự túc lương thực tại chỗ. Phong trào thủy lợi đã triển khai khắp các tỉnh một cách quyết liệt. Phong trào phá rừng để trồng lúa được thực hiện một cách chính qui từ vùng núi xuống đến các cánh rừng tràm đất rất chua phèn. Nhờ thế diện tích lúa cao sản tăng nhanh. Các đơn vị nghiên cứu lúa được bổ sung thêm nhiều.
Có giống lúa mới, có kỹ thuật mới, nhưng nông dân các tỉnh phía nam vẫn chưa sản xuất đúng tiềm năng trong các tập đoàn sản xuất và hợp tác xã nông nghiệp. Đến năm 1981, sự đổi mới chính sách của Đảng và Nhà nước cho phép nông dân cả nước được giao đất khoán sản phẩm lúa. Nông dân nhận đất khoán, rất phấn khởi đầu tư hết công sức vào đất khoán của mình. Sản lượng lúa tăng nhanh ngay trong 2 năm đầu đổi mới: năm 1981 đạt 15.1 triệu tấn, và năm 1982 lên 16,6 triệu tấn. Nhưng từ 1983 trở đi, sản lượng tăng chậm hơn, mà đến 1987 đã sụt xuống dưới 18 triệu tấn so năm 1986. Lý do chính là nông dân lại chán nản vì kiểu khoán đất không ổn định, không hếtt lòng đầu tư cho mảnh đất mà mình chưa làm chủ được. Chủ trương “Khoán 10” công bố năm 1988, cho phép nông dân được giao khoán đất - quyền sử dụng đất - lâu dài, được thừa kế, và được chuyển nhượng. Trong khi đó, giá cả nông sản và vật tư nông nghiệp cũng được qui về một giá, thay gì hai giá như trước đó. Kết quả là nông dân phấn khởi, nhanh chóng đầu tư toàn lực cho mảnh đất được giao quyền sử dụng lâu dài của mình, đẩy mạnh sản xuất lúa. Sang năm sau, cả nước Việt Nam đâu đâu cũng dư lúa, cơ quan lương thực không còn khó khăn trong việc mua lúa của dân. Bắt đầu từ tháng 9/1989 đến cuối năm, Việt Nam đã xuất 1,79 triệu tấn gạo đầu tiên sau ngày hòa bình. Từ đó sản lượng tăng lên mỗi năm khoảng 1 triệu tấn lúa cho đến năm 2004 sản lượng lúa đạt mức 35,6 triệu tấn.
Lúa quá nhiều, nhưng giá lúa không cao trong khi chi phí sản xuất chưa kéo xuống được bao nhiêu, cho nên lợi tức của nông dân trồng lúa chưa tăng tương đối theo vật giá khác trong nước. Họ cần được đần tư để đa dạng hóa cơ cấu cây trồng hầu có thêm thu nhập cao. Đến năm 2000 mới có NQ 9/2000 của Thủ tướng cho phép nông dân các địa phương chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp sao cho lợi tức nông hộ được tăng thêm. Những hệ thống canh tác lúa-tôm, lúa-cá, lúa-màu, v.v. đang được nông dân hưởng ứng.
Trong thời buổi toàn cầu hóa, hạt gạo Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với hạt gạo của các nước khác, chỉ có một lối thoát cho nông dân Việt Nam là phải nâng cao trình độ sản xuất, áp dụng khoa học kỹ thuật để tăng chất lượng, bảo đảm vệ sinh an toàn sản phẩm và giảm giá thành sản xuất. Nông dân ta cần nghiêm khắc theo đúng những hướng dẫn kỹ thuật nông nghiệp hiện đại để dễ tiêu thụ được sản phẩm một cách ổn định chắc chắn, nhất là khi bà con nông dân trong hợp tác xã nông nghiệp và các công ty kinh doanh gạo cùng bắt tay nhau thật khắn khít. Doanh nghiệp tồn tại và phát triển khi có nguồn nguyên liệu dồi dào, chất lượng và an toàn vệ sinh từ hợp tác xã nông nghiệp. Trong khi đó hợp tác xã nông nghiệp tiếp tục phát triển, mọi nông dân tăng lợi tức khi được doanh nghiệp bao tiêu đúng loại sản phẩm mà doanh nghiệp cần. Mối gắn bó này phải được nhanh chóng thiết lập và duy trì thì khu vực nông nghiệp và công nghiệp chế biến mới có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế trong thời hội nhập.
Lúa là một trong năm loại cây lương thực chính của thế giới.
Đối với người Việt chúng ta cây lúa không chỉ là một loại cây lương thực quý mà còn là một biếu tượng trong văn chương ẩn dưới "bát cơm","hạt gạo".
Việt Nam, một nước có nền kinh tế nông nghiệp từ hàng ngàn năm nay. Từ một nước thiếu lương thực trầm trọng trong những năm chiến tranh nhưng hiện nay, nền nông nghiệp của nước ta không chỉ sản xuất ra đủ một lượng lớn lương thực đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu sang nhiều thị trường lớn trên thế giới. Trong đó ngành trồng lúa ở nước ta là một trong những ngành ngành sản xuất lương thực vô cùng quan trọng và đạt được những thành tựu đáng kể, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới.
Đối với người Việt chúng ta, hay phần lớn dân Á châu nói chung, cây lúa (tên khoa học là Oryza sativa) và hạt gạo là một loại thực phẩm hết sức gần gũi và đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong dinh dưỡng. Ngay từ khi còn trong lòng mẹ, chúng ta đã làm quen với cơm gạo, và lớn lên theo cây lúa cùng hạt gạo. Với bản sắc văn hóa nông nghiệp, cây lúa và hạt gạo còn là một biểu tượng của cuộc sống. Ca dao, khẩu ngữ chúng ta có câu “Người sống về gạo, cá bạo về nước”, hay “Em xinh là xinh như cây lúa”, v.v..
- Qua hàng nghìn năm lịch sử, lúa đã là cây lương thực chủ yếu nuôi sống các thế hệ người Việt cho đến nay. Trong đời sống tinh thần của con người, cây lúa cũng gắn bó thân thiết vô cùng. Điều đó được thể hiện rất rõ trong ngôn ngữ hàng ngày, trong cách nói, cách đặt tên, gọi tên từ cửa miệng của những người hai sương một nắng.
Bắt đầu từ lúc ném hột mộng xuống đồng. Thông thường ném buổi sáng thì buổi chiều mộng "ngồi" được, tức là rễ đã bám được vào đất và mầm nhọn đã xuôi hướng lên trời. Bác nông dân hoàn toàn có thể yên tâm vì nó đã sống được trong môi trường mới, đích thực của nó.
Qua hôm sau, mầm nhú lên cao hơn, bắt đầu có chút xanh xanh, người ta bảo là mạ đã "xanh đầu". Mạ cũng có "gan". "Gan mạ nằm ở thân non, dễ bị gãy nát. Nhổ không khéo, nhỡ để giập "gan" thì dảnh mạ sẽ "chết".
Cấy xuống được vài ba hôm thì lúa đâm rễ mới, gọi là bén chân hay "đứng chân". Cũng như chữ "ngồi" ở trên, chữ "đứng chân" rất chính xác, rất hình tượng, vì chỉ vài ba hôm trước do mới cấy, mọi cây lúa đều ngả nghiêng, xiêu vẹo, thậm chí có cây còn bị nổi trên mặt nước nữa. Giờ đây đã "đứng chân" được, tức là cũng giống như người ta, có một tư thế đứng chân vững vàng, đã chắc chắn bám trên mặt đất.
Khác với lúc nảy mầm, cây lúa sinh sôi bằng cách "đẻ nhánh". Nhánh "con" nhánh "cái" thi nhau mọc ra, tần vần thành khóm. Vào khoảng tháng hai âm lịch, khắp cánh đồng mơn mởn màu xanh. Dáng cây thon thả, mềm mại, sắc lá non tơ đầy sức sống gợi cái gì đấy tươi trẻ, xinh xắn, dịu dàng. Đó chính là lúc cây lúa "đang thì con gái", thời đẹp nhất của đời lúa, đời người. Gặp hôm trời quang mây tạnh, đứng ở đầu làng mà trông, cánh đồng trải ra bát ngát, đẹp tựa bức tranh.
Hết thời kỳ xuân xanh, lúa chuyển sang giai đoạn "tròn mình", "đứng cái" rồi "ôm đòng". Đòng lúa to nhanh, nắng mưa rồi mỗi ngày mỗi khác. "Lúa chiêm lấp ló đầu bờ/Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên". Nếu mưa thuận gió hoà chỉ mươi hôm là lúa trỗ xong. Nhưng chẳng may gặp kỳ khô hạn thì đòng không trỗ lên được, người ta bảo bị "nghẹn". "Nghẹn" là cực lắm rồi, là có cái gì nó vương vướng, như uẩn ức trong lòng...
Ngoài ra cũng có thể bị "ngã", bị "nằm" lúc gặp gió lớn mưa to. Ông bà ta sợ nhất cảnh này vì mấy tháng trông cây đã sắp đến ngày hái quả. Nếu chẳng may bị "ngã" non thì hột thóc sẽ lép lửng, coi như hỏng ăn. Còn lúa "nằm" dưới nước, ngâm độ vài ngày thì hột thóc trương lên, nứt nanh và nảy mầm ngay trên bông. Mầm nhú trắng trông xót ruột. Xót ruột về khoe vui với nhau, thóc nhà tôi "nhe răng cười" ông ạ!
Người nông dân xưa nay vốn mộc mạc, chất phác. Chẳng phải họ văn vẻ gì đâu. Chỉ vì gần gũi quá, thân quen quá. Ban ngày vác cuốc ra đồng thăm lúa. Ban đêm giấc mơ toàn thấy những cây lúa. Lúa là đói no, là người bạn có thể sẻ chia nỗi niềm, buồn vui tâm sự. Trải qua chiều dài các thế hệ, đời lúa lặn vào đời người. Và rồi, đời người lại chan hoà, gửi gắm vào đời lúa thông qua những từ ngữ nôm na, những tên gọi sinh động kể trên.
Cây lúa gần gũi với người nông dân cũng như bờ tre, khóm chuối. Bởi vậy thấm đẫm tình người và hồn quê, càng nắng mưa, sương gió, càng nồng nàn hoà quyện thân thương.
Nông nghiệp Việt Nam vốn mang dáng dấp một nước -nền công nghiệp lúa nước bao đời nay cho nên cây lúa gắn bó ,gần gũi với người Việt,hồn Việt là lẽ dĩ nhiên.
Dưới đây là 1 đoạn thuyết minh về cây lúa mà mình sưu tầm được,bạn có thể tham khảo thêm:
Từ ngàn đời nay,cây lúa đã gắn bó với con người,làng quê Việt nam.Và đồng thời cũng trở thành tên gọi cho một nền văn minh-nền văn minh lúa nước.
Cây lúa không chỉ mang lại sự no đủ mà còn trở thành một nét đẹp trong đời sống văn hóa và tinh thần.hạt lúa và người nông dân cần cù,mộc mạc là mảng màu không thể thiếu trong bức tranh của đồng quê Việt nam hiện nay và mãi mãi về sau
Là cây trồng thuộc nhóm ngũ cốc,lúa cũng là cây lương thực chính của người dân VN nói riêng và người dân châu á nói chung.Cây lúa ,hạt gạo đã trở nên thân thuộc gần gũi đến mức từ bao đời nay người dân VN coi đó là một phần không thể thiếu trong cuộc sống.Từ những bữa cơm đơn giản đến các bữa tiệc quan trọng không thể thiếu sự góp mặt của cây lúa,chỉ có điều nó được chế biến dưới dạng này hay dạng khác.Không chỉ giữ vai trò to lớn trong đời sống kinh tế,xã hội mà còn có giá trị lịch sử,bởi lich sử phát triển của cây lúa gắn với lịch sử phát triển của cả dân tộc VN,in dấu ấn trong từng thời kỳ thăng trầm của đất nước.Trước đây cây lúa hạt gạo chỉ đem lại no đủ cho con người, thì ngày nay nó còn có thể làm giàu cho người nông dân và cho cả đất nước nếu chúng ta biết biến nó thành thứ hàng hóa có giá trị.
Việt Nam là cái nôi của nền văn minh lúa nước,hạt gạo gắn liền với sự phát triển của dân tộc.....cho đến nay vẫn là nền kinh tế của cả nước.