watch sexy videos at nza-vids!
22:16:13
22:11:24
Tip: Hãy lưu trang Cute.Wap.Sh lại và giới thiệu với bạn bè nhé!
Thuyết minh về cái quạt
Cây quạt là vật dụng có từ rất lâu đời màtổ tiên loài người đã tạo ra. Cây quạt xuất hiện từ khi con người bắt đầu biết mặc...quần áo (do nóng bức mà phải quạt cho... mát). Cây quạt đơn giản nhất chính là bàn tay của của chúng ta đó (trời nóng vẫy vẫy tay cho mát ý). Nguyên lý hoạt động của cây quạt vô cùng đơn giản đó làtạo ra những dòng không khí chuyển động liên tục (còn gọi là gió). Khigió tiếp xúc với da con người thì sẽ mang đi một phần nhiệt lượng trênbề mặt da, do đó ta cảm thấy mát khi quạt.
Cây quạt ngoài tác dụng quạt mát ra còn có nhiều tác dụng khác, như làm vật trang trí (quạt phong thủy, quạt thư pháp), làm vũ khí (các thư sinh trong các tiểu thuyết kiếm hiệp vẫn hay dùng ý).
Cách làm một cây quạt cũng khá đơn giản:
Nếu bạn thích là quạt nan theo kiểu truyến thống thì chuẩn bị nguyên liệu: gồm 8-12 thanh tre vót mỏng, giấy, kéo, keo dán.
xếp các thanh tre lại, thanh nọ chồng lên thanh kia rồi dùi 1 lỗ xuyênqua đầu mút các thanh, cố định chúng bằng 1 cái trục sao cho chúng dễ dàng tách ra thành hình nan quạt và dễ dàng khi xếp lại.
Tách các nan quạt ra, ướm 2 tờ giấy lên và cắt thành hình cung theomong muốn, dùng keo dán 2 tờ giấy vừa cắt lên 2 mặt của các nan quạtsao cho các nan quạt được tách đều nhau. Vậy là bạn đã có 1 cái quạtđơn giản có thể mở ra gập vào. Tùy theo sở thích bạn có thể vẽ hoa hòe,trang trí, tua rua... cái quạt của mình cho thật đẹp
Version 2:
Cội nguồn của chiếc quạt giấy Việt nam bắt nguồn từ những làng quê sau lũy tre xanh.
Và cũng từ cây tre thân thuộc -chiếc quạt giấy đơn giản và dung dị đãra đời.xét về mặt giá trị ,đương nhiên là để làm mát cho người đờitrong những ngày hè oi ả,lặng lẽ đi vào đời sống tinh thần của dân tộcta.
Quạt có thể là chiếc ô che nắng ngoài trời,thướt tha trên chiếu chèo mềm mại uốn lượn với các cô gái quan họ giao duyên.Trong tay các thi sỹxa xưa ,quạt bỗng trở nên như có ai thổi hồn thơ vào đó. Những vần thơ mượt mà như làn gió thoảng từ chiếc quạt bay ra làm nức nở bao người.
Từ ngàn xưa ,trên các làng quê đã có nhiều nghệ nhân làm quạt.Nhiềunhất là ở vùng quê bắc bộ.Đã có nhiều làng nghề làm quạt phát triển gắn bó cùng với những thăng trầm của quê hương.
Ngày nay song hành cùng chiếc quạt giấy cổ truyền còn có các loại hiện đại, phong phú hơn. Nhưng hình ảnh chiếc quạt giấy vẫn cứ tồn tại trongđời sống tinh thần và tâm linh của con người và đồng quê Việt Nam.

Version 3 ( dàn bài chi tiết ):

Dàn bài chi tiết này :
Mở bài : - dẫn dắt nêu vấn đề (có thể dẫn bằng một câu thơ nói về quạt hoặc từ câu chuyện cổ tích thằng bờm )
- Giới thiệu chung về cái quạt ( từ xa xưa quạt đã ttrở thành một người bạn thân thiết trong đời sống của con người việt nam ...)
Thân bài : - nêu nguồn gốc , xuất xứ ( đã có từ rất lâu đời ...)
- Phân loại ( có nhiều loại quạt : từ quạt mo -> quạt giấy ->quạt thủ công bằng nan tre -> hiện đại nhất là quạt điện . ngoài racòn nhiều loại quạt đồ chơi của trẻ em hay dùng trang trí trong nhà.....)
- Nêu đặc điểm riêng của từng loại quạt ( làm bằng những vật liệu gì , hình dáng , kích thước ra sao , cấu tạo chính ...)
- Công dụng : dùng để tạo gió quạt mát cho con người , dùng để trangtrí , dùng làm dụng cụ ca múa hát , đồ chơi , những cô gái trẻ nướcngoài còn dùng quạt làm duyên trong những ngày lễ ...)
- Ý nghĩa : là vật dụng quan trọng , hữu ích , mang lại nguồn lợi nhuận trong kinh doanh ...
Kết bài : _ nêu lại ý nghĩa chính
- Nêu cảm nghĩ của bạn thân

TB: - nguồn gốc ra đời (nếu có)
- phân loại
- kiểu dáng, hình dáng
- cấu tạo
- cách sử dụng
- cách bảo quản
- giá thành
- thương hiệu nổi tiếng
- giá trị tiện ích (sử dụng, kinh tế )


Ngoài ra còn 1 số thông tin về quạt máy mình sưu tầm được:

QUẠT MÁY

Quạt máy là thiết bị chống nóng chủ yếu trong mùa hè vì nó đơn giản và kinh tế. Nhưng nếu sử dụng máy không hợp lý thì có thể ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ.
Không để quạt thổi lâu
Ngồi trước quạt lâu, nhiệt độ cơ thể sẽ giảm theo sự bốc hơi của mồ hôi, dẫn đến bị cảm, đau bụng. Thời gian ngồi quạt mỗi lần khoảng 30 - 60 phút là hợp lý. Khi bật quạt, nên ấn túp năng để quạt quay đi các hướng, không nên để cố định một chỗ.
Không nên để quạt thổi với tốc độ cao
Khi nhiệt độ môi trường vượt quá 30oC, nhiệt độ không khí đã gần với nhiệt độ cơ thể, nhiệt năng trong cơ thể người được phát tán chủ yếu nhờ vào sự bốc hơi của mồ hôi. Nếu để quạt thổi quá mạnh, nhiệt độ bề mặt da giảm, lỗ chân lông khép kín, nhiệt độ trong cơ thể không phát tán ra được sẽ làm cho người mệt mỏi, đau nhức lưng. Do vậy, chỉ nên dùng quạt ở tốc độ vừa, tạo ra những luồng gió nhẹ nhàng là được.
Không nên để quạt thổi quá gần
Không ít người vẫn lầm tưởng khi nóng, càng ngồi gần quạt càng mát, nhưng thực tế nếu ngồi gần quạt quá lâu sẽ càng mệt mỏi. Vì ở phía quạt thổi tới, mồ hôi trên da sẽ bốc nhanh, nhiệt độ giảm xuống, còn phía bên kia mồ hôi bốc hơi chậm khiến cho sự tuần hoàn máu và bài tiết mồ hôi ở hai phía của cơ thể có sự chênh lệch. Lúc này các cơ quan trong cơ thể cần phải được điều chỉnh lại để có sự cân bằng. Khi thời gian kéo dài, sẽ sinh ra mệt mỏi, cảm thấy khó chịu toàn thân. Tốt nhất là để quạt cách cơ thể trên 2 mét.


- Cái quạt máy thì mua về có sẵn rồi chỉ cần gim điện, nhấn số là mát khỏi mất công làm. Muốn quạt quay nhanh thì chọn nút 1, muốn quạt quay vừa thì nhấn nút 2, muốn quạt quay chậm nhấn nút 3...(có nhiều quạt dùng Remot nhanh tiện khỏi mất thời gian).

- Các bạn thấy công dụng của quạt rồi chứ, nhất là trong mùa hè nóng nực thì quạt rất cần đấy.

Lịch sử về cái quạt

Vào những ngày hè nóng bức, mất điện ở thành phố đúng là một tai họa. Nhưng mất điện cũng có cái hay. ấy là thay vì cắm đầu vào tivi hay internet, người ta vác ghế ra hè phố, phe phẩy cái quạt và chuyện trò với hàng xóm. Hẳn sẽ có rất nhiều câu chuyện. Và câu chuyện về cái quạt tay mà lâu nay đã bị văn minh dẹp vào xó, chắc cũng làm không ít người bùi ngùi nhớ lại một vật tri kỷ suốt thời chiến tranh ác liệt và thời Bao cấp bi tráng.
Năm 1949 họa sỹ Sỹ Ngọc vẽ bức tranh Cái bát. Bức tranh sơn mài nổi tiếng này hiện đang lưu giữ tại bảo tàng Mỹ thuật quốc gia. Bức tranh thể hiện tình quân dân cá nước. Hai nhân vật trong tranh là anh bộ đội và một bà mẹ nông thôn. Đó là một câu chuyện thời chiến rất bình thường, có đoàn vệ quốc quân qua làng, có những “mẹ già bịn rịn áo nâu-vui đàn con nhỏ rừng sâu mới về” (Hoàng Trung Thông). Anh bộ đội nhận lấy bát nước từ tay mẹ. Người mẹ già trìu mến vừa nhìn anh bộ đội, tay không ngừng phe phẩy chiếc quạt giấy. Chưa bao giờ mà nền son sơn mài lại nóng bức và oi ả đến vậy. Bức tranh cũng có thể có những cái tên như Tình quân dân, Trên đường hành quân, Các anh về, Qua làng, Nhớ bủ hay Trưa hè nhưng họa sỹ đã chọn một cái tên rất giản dị: Cái bát. Cái bát chỉ là “đạo cụ” trong câu chuyện này, nhưng nó trở thành tâm điểm của bức tranh. Cái bát gốm mộc mạc, dáng thô thô nhưng chứa đựng cả cái ước nguyện hòa bình, một biểu tượng của gia đình. Thời chinh chiến, lính tráng uống nước trong bi đông, ngang qua suối vục tay làm bát. ở cái thủa mỹ thuật của những hoạt cảnh, Cái bát là một ngoại lệ. Sau nửa thế kỷ nhìn lại chúng ta càng thấy sự độc đáo của tác phẩm. Bức tranh nổi tiếng không vì cái tên, nhưng tên tranh đã thể hiện được tư duy sáng tạo của người nghệ sỹ.
Trở lại bức tranh Cái bát, sự xuất hiện của cái quạt trong ty người mẹ, cho ta ước đoán rằng bà mẹ đã đưa cho anh bộ đội bát nước chè xanh (hoặc chè vối) nóng. Chiếc quạt giấy vẫn giống như những chiếc quạt giấy còn bán ở bến tàu bến xe hiện nay. Xương quạt làm bằng tre, giấy bồi nhuộm mầu tím Huế, có dập các lỗ châm kim hình hoa văn. Làng Vác (Hà Tây) hay Phương Ngạn (Triệu Phong, Quảng Trị) đã từ lâu nổi tiếng với các sản phẩm quạt giấy. Nhưng sẽ ra sao nếu không phải là chiếc quạt giấy? Mà là chiếc quạt nan! So với chiếc quạt giấy thì quạt nan quê mùa hơn, chất phác hơn và cũng có lịch sử lâu đời hơn. Chiếc quạt giấy liên quan tới công nghệ giấy, vì thế nó không thể xuất hiện ở Việt Nam trước thế kỷ thứ nhất sau CN(1) .
Chiếc quạt nan hình thang là hình dạng cổ truyền và phổ biến nhất ở Bắc Trung bộ. Tôi đã tự thử thay chiếc quạt giấy bằng quạt nan, hiệu quả thị giác không khác nhau là bao, nhưng có sự thay đổi về hàm lượng văn hóa. Nếu bên anh bộ đội, không phải bà mẹ mà là một cô thôn nữ, chắc chiếc quạt giấy sẽ hợp hơn. Người viết cảm thấy có sự sự băn khoăn trong sự lựa chọn ở họa sỹ. Tư thế cầm quạt của bà mẹ là tư thế cầm quạt nan không phải là tư thế cầm quạt giấy. Khi cầm quạt giấy, ngón cái ngửa ra ngoài, bốn ngón còn lại hướng vào trong, vì quạt giấy quạt bằng cổ tay chứ không quạt bằng cánh tay như quạt nan.
Khi Hồ Xuân Hương có hai bài thơ Vịnh cái quạt nữ thi sỹ họ Hồ này đã vịnh quạt giấy. Ngoại trừ sự tương đồng của hình ảnh “ chành ra ba góc da còn thiếu, khép lại đôi bên thịt vẫn thừa” của chiếc quạt rất nhiều ngụ ý, thì chiếc quạt giấy nó vốn là một vật gắn bó với tầng lớp trên của xã hội hơn. Nên quả không ngoa khi bà viết rằng: “ mát mặt anh hùng khi tắt gió - che đầu quân tử lúc sa mưa”, hay là “ hồng hồng má phấn duyên vì cậy - chúa dấu, vua yêu một cái này”.
Tản mạn về chiếc quạt nan. Chiếc quạt nan mang dấu ấn của Văn hóa tre nứa. Tôi vẫn đinh ninh rằng chiếc quạt tre hình thang là một nét văn hóa cổ truyền của người Việt và nó thể hiện một thứ văn hóa nông dân của các cư dân nông nghiệp. Trung Quốc là một trong những cái nôi văn minh thế giới, lịch sử quạt của Trung Quốc có từ rất sớm (từ đời Thương, khoảng từ thế kỷ 17 - tk 11 TCN), cùng với Ai Cập là hai cái nôi của chiếc quạt tay. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc dành nhiều quan tâm tới các loại quạt gấp (quạt ngà, quạt giấy) hay tròn (quạt có hình tròn có cán). Loại quạt hình tròn gọi là đoàn phiến. Loại đoàn phiến này cũng đa phần bằng giấy. Các loại quạt giấy ở Trung Hoa còn được vẽ lên các bức tranh thủy mặc vô cùng đặc sắc. Quạt giấy ngoài trọng lượng nhẹ hơn hẳn các loại quạt nan và quạt lông lại được trang trí đẹp nên được ưa chuộng từ chốn cung đình tới nơi thôn dã. Quạt giấy gấp vào mở ra của Trung Hoa đã lan truyền đi khắp thế giới. Người Nhật đã thành công khi biến những chiếc quạt thành các biểu tượng văn hóa xứ hoa anh đào. Hình ảnh quý bà mắt xanh tóc vàng cầm quạt trong bức tranh sơn dầu của Claude Monet thể hiện cơn sốt Nhật Bản ở châu Âu lúc đó. Chiếc quạt giấy xòe ra và gấp lại cả một thế giới huyền bí, có lẽ vì thế mà người ta hay vẽ lên đó các bức tranh sơn thủy. Các động tác vũ đạo trong nghệ thuật sân khấu truyền thống Viễn Đông khó lòng thiếu được quạt giấy. Chính tà, trung nịnh đều được diễn tả qua cách điệu bộ với chiếc quạt.
Quạt lông cũng có một vị thế tinh thần không kém gì quạt giấy, đặc biệt về phương diện tôn giáo. Trong tám vị tiên của Đạo giáo Trung Hoa, Hán Ly Chung có chiếc quạt có quyền năng cải tử hoàn sinh vô cùng linh diệu. Gia Cát Lượng bậc tướng kỳ tài đa mưu túc kế thời Tam Quốc gắn liền với chiếc quạt lông phe phẩy. ở Việt Nam, chiếc quạt giấy và quạt lông hiện diện trong điêu khắc đình làng (đình Thổ Tang), trong tranh thờ Hàng Trống (Tố nữ), tranh Đông Hồ (Rước trống), trong Điệu múa cổ (Nguyễn Tư Nghiêm), tranh Chèo (Bùi Xuân Phái). Quạt giấy đã hiện diện từ thơ ca nhạc họa, điêu khắc suốt mấy trăm năm nay
Xét về thị giác, hình dẻ quạt của chiếc quạt giấy ưa nhìn hơn hình thang của chiếc quạt chiếc quạt nan.
Vậy có phải cái quạt nan dân giã không xứng đáng len chân vào thế giới nghệ thuật?
Tôi từng có nhận định rằng chiếc quạt nan hình thang là của người Việt. May thay, khi tìm hiểu về tranh khắc mộ Hán ở Trung Quốc, người viết đã nhìn thấy rất nhiều bức vẽ các nhân vật cầm quạt nan, giống hệt với chiếc quạt mà ta vẫn dùng hôm nay. Ban đầu quạt chỉ xuất hiện trong tay của Tây Vương Mẫu (một vị thần có vị trí tối thượng thời Tây Hán), hoặc những những người hầu đang quạt cho bà. Nhưng về sau, chiếc quạt nan không còn là sở hữu riêng có của Tây Vương Mẫu. Những bức tranh khắc cảnh nhà bếp ở Câu Nam thôn, Vi Sơn tỉnh Sơn Đông cuối thời Tây Hán, có khắc cảnh một người đang dùng quạt nan quạt thịt nướng. Bức tranh khắc trong một ngôi mộ khác ở trấn Cửu Đỉnh, huyện Linh Bích tỉnh An Huy là một trong bức tranh khắc có nhiều cảnh cầm quạt nan nhất. Quạt khi sống ở dương gian, tới lúc lên trên tiên giới cũng vẫn dùng quạt, quạt lúc đang làm việc, dạo chơi, ăn cơm, tang ma. Thần tiên dùng quạt nan, thầy cúng dùng quạt nan, người thường cũng dùng quạt nan, những chiếc quạt nan lớn bé không khác nhau về hình dáng. Cảm động nhất là hình khắc người vợ dệt vải, người chồng đứng sau quạt rồi bất chợt ôm hôn vợ, xa xa có hình đứa trẻ, mà ta đoán là đứa con của hai người. Nội dung các bức tranh khắc ở đây kể lại nỗi niềm nhớ vợ và ao ước được đoàn tụ trên tiên giới của một anh chồng trẻ. Chiếc quạt nan là một vật thân thiết, cùng người ta chia sẻ những ngọt bùi.
Giờ đây, chiếc quạt nan được chúng ta xếp hạng gần chót, chỉ trên quạt mo cau. Nhưng hơn 2000 năm trước chiếc quạt được làm ra từ thành quả của ngành luyện kim. Nếu không có những chiếc dao sắc có thể chẻ tre thành những nan mỏng thì không thể làm ra được chiếc quạt nhẹ như vậy. Quạt nan được thấy qua các bức khắc trong mộ Hán, nhưng không ai biết cụ thể kích thước của nó do tre nứa là vật dễ bị phân hủy không dễ gì lưu lại với thời gian. Năm 1982 tại Hồ Bắc, Giang Lăng, Mã Sơn, trong ngôi mộ số 1, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy chiếc quạt nan cổ nhất cho tới nay trên thế giới. Chiếc quạt nan có niên đại thời Chiến Quốc được bảo lưu tới nay nhờ lớp sơn ta bên ngoài với hai màu đen - đỏ. Chiếc quạt có kích thước mặt dài nhất là 24, 3 cm, rộng 16,8 cm, cán có chiều dài 40,8 cm. Hiện chiếc quạt đang lưu giữ ở bảo tàng Kinh Châu. Chiếc quạt cổ nhất này cùng với chiếc kiếm của 4 đời Việt vương, mẫu của Ngô vương Phù Sai(2) là những hiện vật quan trọng nhất của bảo tàng Kinh Châu. Nhưng hình ảnh chiếc quạt nan chỉ xuất hiện trong nghệ thuật thời Hán và bị thay thế bởi những chiếc quạt giấy và quạt lông thời Ngụy Tấn, Nam Bắc triều.
Tuy không có được vị trí danh giá trong lịch sử nghệ thuật Việt, nhưng chiếc quạt nan đã tận tụy, cần mẫn, bền bỉ trong đời sống thường nhật của người dân. Nếu nói văn hóa là một vật, thì cái quạt nan không có nguồn gốc bản địa. Nhưng nói văn hóa là kiểu lựa chọn (Phan Ngọc), thì cách dùng quạt nan suốt mấy nghìn năm nay là văn hóa Việt. Cái quạt nằm ngang hình thang, ổn định, quân bình như câu thơ lục bát. Đây phải chăng cũng là món nợ văn hóa mà của nghệ thuật Việt Nam với chiếc quạt nan.
Tầm thường như cái quạt mo còn có bài thơ “Thằng Bờm”. Tiếc rằng Sỹ Ngọc không tặng thêm cho mỹ thuật thời kháng chiến một kiệt tác thứ hai có tên là “Cái quạt nan”. Nhà thơ Vương Trọng có bài thơ “Gió từ tay mẹ” sáng tác năm 1974, đây là tác phẩm hay nhất về chiếc quạt nan. Bài thơ được chọn vào SGK lớp 3 (cũ) , lời thơ có đoạn:
“Quạt nan như lá
Chớp chớp lay lay
Quạt nan mỏng dính
Quạt gió rất dày
Gió từ ngọn cây
Có khi còn nghỉ
Gió từ tay mẹ
Thổi suốt đêm ngày”.
Thật giản dị và cảm động! Có ai trong chúng ta không từng được mẹ quạt đưa vào giấc ngủ. Đúng là chiếc quạt “Nan- ti on- nan” của mẹ không có định giờ, không có chức năng khử độc, không bơm ô xy, không có màng lọc mạ vàng, không công nghệ nano-không có thương hiệu quốc tế, nhưng có tình mẹ bao la.
Gần đây có những thảo luận về vai trò nghệ sỹ như những người làm văn hóa (artist or cultural worker). Cái tôi nghệ sỹ trở nên ít quan trọng, thậm chí bị chính nghệ sỹ thủ tiêu. Nhưng lạ thay họ lại nổi lên như những đại diện văn hóa của một dân tộc và thời đại. Trong buổi nói chuyện về văn hóa Tây Ban Nha ngày 15/9/2006 tại khách sạn Melia Hà Nội, diễn giả là một họa sỹ. Frederic Amat không chỉ là một họa sỹ, ông còn là nhà điêu khắc, nhà thiết kế, đạo diễn phim rất nổi tiếng của Tây Ban Nha. Buổi nói chuyện dành cho đối tượng là các sinh viên ngoại ngữ. Buổi nói chuyện không có phiên dịch, nhưng qua hình ảnh minh họa, tôi thấy nghệ sỹ đang thể hiện cách nhìn các tác phẩm nghệ thuật như các tiêu bản văn hóa.
C-STAT
1 | 11844
© Copyright Cute Wap
Powered by XtGem.Com